Hiện nay, các vụ án liên quan đến tội phạm có chức vụ đang được giới dư luận ngày càng quan tâm trong thời gian qua, một trong số đó là tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ. Cùng Luật Triệu Phúc tìm hiểu về tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ.
1. Căn cứ pháp lý
- Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017.
2. Thế nào là lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ?
Có thể hiểu lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ là hành vi của người vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
3. Tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ có hình phạt gì?
3.1 Hình phạt chính
3.1.1 Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm
Áp dụng với người vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ gây thiệt hại về tài sản từ 10.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại khác đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
3.1.2 Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm
Áp dụng với người phạm tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Có tổ chức;
- Phạm tội 02 lần trở lên;
- Gây thiệt hại về tài sản từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.
3.1.3 Phạt tù từ 10 năm đến 15 năm.
Áp dụng với người phạm tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ gây thiệt hại về tài sản 1.000.000.000 đồng trở lên.
Ngoài các trường hợp được liệt kê tại các khung hình phạt trên, việc quyết định hình phạt của lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác.
3.2 Hình phạt bổ sung
Ngoài hình phạt chính ra, người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.
4. Cấu thành tội phạm của tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ
4.1 Chủ thể tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ
Ngoài hai dấu hiệu pháp lý thông thường của chủ thể của tội phạm là độ tuổi và năng lực trách nhiệm hình sự, chủ thể của tội phạm là chủ thể đặc biệt, là người có chức vụ, quyền hạn.
Nếu người gây thiệt hại cho xã hội không có dấu hiệu về chức vụ, quyền hạn thì hành vi gây thiệt hại có thể cấu thành một tội phạm khác.
Dấu hiệu về chủ thể đặc biệt chỉ yêu cầu người phạm tội, trong trường hợp đồng phạm thì những người đồng phạm khác như người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức không cần dấu hiệu trên đây.
4.2 Khách thể tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ
Tội phạm xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức xã hội, đồng thời xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân.
4.3 Mặt chủ quan tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ
4.3.1 Yếu tố lỗi
Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công, người phạm tội thực hiện hành vi của mình là cố ý (cố ý trực tiếp)
Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả xảy ra; không có trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân được thực hiện do cố ý gián tiếp, vì người phạm tội bao giờ cũng mong muốn gây thiệt hại cho xã hội.
4.3.2 Động cơ
Đối với tội này, động cơ phạm tội là dấu hiệu bắt buộc.
Nếu không xác định được động cơ của người phạm tội thì hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân không cấu thành tội phạm này.
Động cơ vụ lợi là vì lợi ích vật chất, tinh thần, mà người có chức vụ, quyền hạn đạt được thông qua hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình.
Động cơ cá nhân khác là vì lợi ích phi vật chất cho mình hoặc cho người khác mà mình quan tâm như: vì nể nang, vì cảm tình cá nhân, vì danh vọng, địa vị xã hội… Đây cũng là dấu hiệu rất khó định lượng và trong thực tế nhiều trường hợp nó trở thành “cái túi” để cơ quan tiến hành tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
4.4 Mặt khách quan tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ
Hành vi khách quan của tội này là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ.
Trong thực tế làm trái công vụ có thể là không làm trong trường hợp phải làm và có điều kiện để làm hoặc làm nhưng không đầy đủ hoặc làm ngược lại quy định hoặc yêu cầu của công vụ.
Quy định về công vụ có thể tồn tại trong các quy định của pháp luật, nội quy, chế độ, thể lệ của ngành hoặc địa phương. Hành vi làm trái của người có chức vụ, quyền hạn phải gây ra những thiệt hại cụ thể cho lợi ích của nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
Như vậy, hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm này là dấu hiệu pháp lý bắt buộc trong cấu thành tội phạm.
Đây là loại tội phạm mà hậu quả nguy hiểm của nó rất đa dạng. Chúng có thể là những thiệt hại mang tính vật chất như tính mạng, sức khỏe, tài sản nhưng cũng có thể là những thiệt hại phi vật chất như uy tín, danh dự, nhân phẩm con người… khi có hậu quả xảy ra thì hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ bị coi là tội phạm.
Khi xem xét để định tội danh, bạn phải xem xét kỹ các dấu hiệu cấu thành tội phạm. Nếu không có đủ các yếu tố trên sẽ không phải chịu các hình phạt được quy định tại Điều 356 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017.
5. Phân biệt tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ với tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ
Hai loại tội phạm trên có nhiều điểm giống nhau khiến trong thực tế rất dễ bị nhầm lẫn. Tuy nhiên, giữa chúng lại hoàn toàn khác nhau.
Tiêu chí phân biệt |
Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ |
Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ |
Căn cứ pháp lý |
Điều 356 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 | Điều 357 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 |
Khái niệm |
Là sử dụng vượt quá quyền hạn, chức trách, nhiệm vụ được giao hoặc tuy không được giao, không được phân công nhiệm vụ, quyền hạn trong lĩnh vực đó nhưng vẫn thực hiện. | Là dựa vào chức vụ, quyền hạn được giao để làm trái, không làm hoặc làm không đúng quy định của pháp luật. |
Về hành vi khách quan |
Dựa vào chức vụ, quyền hạn được giao để làm trái công vụ.
Tức là, người phạm tội sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình được giao như một “phương tiện” để phạm tội. Người phạm tội không cần sử dụng thêm bất cứ hành vi, thủ đoạn nào khác trong khi thi hành công vụ vì về bản chất họ đã được giao thực hiện các công việc đó nhưng hành vi của họ lại trái công vụ. |
Hành vi vượt quá phạm vi chức trách, nhiệm vụ được giao, từ đó dẫn đến làm trái công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Điều đó có nghĩa là người có chức vụ, quyền hạn đã tự ý làm những việc thuộc thẩm quyền của cấp cao hơn hoặc của người khác |
Về mức độ sử dụng nhiệm vụ, quyền hạn của chủ thể trong khi thi hành công vụ |
Khi thực hiện hành vi phạm tội người này không vi phạm quy định về thẩm quyền.
Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết công việc, họ đã vi phạm các quy định, quy chế được giao cụ thể đối với công việc đó. |
Trong quá trình thực hiện công vụ, có thể người phạm tội thực hiện sai thẩm quyền (vi phạm về phạm vi thẩm quyền), dẫn tới thực hiện sai nội dung của thẩm quyền; hoặc có thể thực hiện sai thẩm quyền (vi phạm về phạm vi thẩm quyền) nhưng vẫn đúng về nội dung của thẩm quyền. |