Trong mối quan hệ của người sử dụng lao động và người lao động không thể tránh được các tranh chấp. Ai là người có quyền giải quết tranh chấp lao động này? vai trò của tổ chức người đại diện lao động trong việc giải quyết lao động được quy định như thế nào. Cùng Luật Triệu Phúc tìm hiểu về Vai trò của tổ chức người đại diện người lao động tại cơ sở trong việc giải quyết tranh chấp lao động qua bài viết dưới đây!
1. Giải quyết tranh chấp lao động là gì?các loại tranh chấp lao đồng
Theo khoản 1 điểu 179 khái niệm tranh châp lao động
Tranh chấp lao động là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ, lợi ích phát sinh giữa các bên trong quá trình xác lập, thực hiện chấm dứt quan hệ lao động, tranh chấp giữa các tổ chức đại diện người lao động với nhau, tranh chấp phát sinh từ quan hệ có liên quan trực tiếp đến quan hệ lao động. Các loại tranh chấp lao động bao gồm:
Tranh chấp lao động cá nhân giữ người lao động với người sử dụng lao động, giữu người lao động với doanh nghiệp, tổ chức đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, giữa người lao động thuê lại với người sử dụng thuê lại.
Tranh châp lao động tập thể về quyền hoặc lợi ích giữu một hay nhiều tổ chức đại diện người lao động với người sử dụng lao động hoặc một hay nhiều tổ chức của người sử dụng lao động.
Các loại tranh chấp lao động
Tranh chấp lao động cá nhân giữa:
– Người lao động với người sử dụng lao động;
– Người lao động với doanh nghiệp, tổ chức đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;
– Người lao động thuê lại với người sử dụng lao động thuê lại.
Tranh chấp lao động tập thể về quyền hoặc về lợi ích giữa một hay nhiều tổ chức đại diện người lao động với người sử dụng lao động hoặc một hay nhiều tổ chức của người sử dụng lao động.
2. Khái quát về tổ chức người lao động
Theo quy định tại Khoản 3, Điều 3, Bộ Luật lao động 2019, cụ thể:
“Tổ chức đại điện người lao động tại cơ sở là tổ chức được thành lập trên cơ sở tự nguyện của người lao động tại một đơn vị sử dụng lao động nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động trong quan hệ lao động thông qua thương lượng tập thể hoặc các hình thức khác theo quy định của pháp luật về lao động. Tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở bao gồm công đoàn cơ sở và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp.
Tổ chức đại diện người lao động là tổ chức có chức năng đại diện người lao động trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động khi những quyền lợi này bị xâm phạm hoặc không được đáp ứng theo quy định pháp luật.
Công đoàn, từ lâu đã được biết đến là tổ chức chính trị – xã hội của giai cấp công nhân và người lao động. Công đoàn được thành lập trên nguyên tắc tự nguyện và là một thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Công đoàn thực hiện nhiệm vụ chủ yếu là đại diện, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động (gồm cả cán bộ, công chức, viên chức và những đối tượng lao động khác).
Bên cạnh đó, Công đoàn còn tham gia vào việc quản lý nhà nước, quản lý kinh tế – xã hội, thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp; tuyên truyền, vận động người lao động học tập nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành nghiêm các quy định pháp luật, góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước trong mọi giai đoạn. Hệ thống tổ chức công đoàn hiện nay gồm các cấp sau:
– Cấp trung ương: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam;
– Cấp tỉnh, ngành trung ương gồm: Liên đoàn lao động tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; công đoàn ngành trung ương và tương đương;
– Cấp trên trực tiếp cơ sở gồm: Liên đoàn lao động huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là Liên đoàn lao động cấp huyện); Công đoàn ngành địa phương; Công đoàn các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao (gọi chung là công đoàn các khu công nghiệp); Công đoàn tổng công ty, Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở khác;
– Cấp cơ sở gồm: Công đoàn cơ sở, nghiệp đoàn cơ sở (gọi chung là công đoàn cơ sở)
Tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp cũng có chức năng đại diện cho người lao động trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp hoặc các công việc khác theo quy định của pháp luật. Đây là quy định mới được thêm vào trong Bộ luật Lao động năm 2019 góp phần làm đa dạng cách thức thành lập tổ chức và phương thức bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Tuy nhiên, khác với công đoàn, tổ chức này không nằm trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam mà chỉ là tổ chức do người lao động thành lập theo trình tự, thủ tục luật định. Tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp chỉ có ở cấp cơ sở – cấp doanh nghiệp, không có hệ thống các cấp như tổ chức công đoàn.
Như vậy, tổ chức đại diện người lao động tại cơ cở là cũng là tổ chức đại diện của người lao động nhưng chỉ bao gồm hai loại sau: Công đoàn cấp cơ sở và Tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp.
3. Thành lập tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở
-Tổ chức của ngưười lao động tại doanh nghiệp đươc thành lập và hoạt động hợp pháp sau khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp đăng ký
-Tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp tổ chức và hoạt động phải bảo đảm nguyên tắc tuân thủ Hiến pháp, pháp luật và điều lệ; tự nguyện, tự quản, dân chủ, minh bạch.
-Tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp bị thu hồi đăng ký khi vi phậm về tôn chỉ, mục đích cảu tổ chức quy định tại điểm b khoản 1 điều 174 của Bộ luật này hoặc tổ chức cảu người lao động tại doanh nghiệp chấm dứt sự tồn tại trong trường hợp chia tách, hợp nhất sáp nhập, giải thể hoặc doanh nghiệp giải thể, phá sản.
-Trường hợp tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp gia nhập công đoàn Việt Nam thì thực hiện theo quy định của luật công đoàn
-Chính phủ quy định về hồ sơ, trình tự, thủ tục đang ký, thẩm quyền, thủ tục cấp đăng ký, thu hồi đăng ký, quản lý nhà nước đối với vấn đề tài chính, tài sản của tổ chức của người lao động tại daoh nghiệp, chia,tách,hợp nhất ,sáp nhập ,giải thể ,quyền liên kêt cảu tổ chức cảu người lao động tại doanh nghiệp.
Điều kiện về thành viên tổ chức đại diện của người lao động tại cơ sở?
+ Quy định tại Điều 13 Quyết định 174/QĐ-TLĐ công đoàn cơ sở được thành lập khi có từ 05 đoàn viên hoặc 05 người lao động trở lên, có đơn tự nguyện gia nhập Công đoàn Việt Nam.
+ Đối với tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp, điều 174 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định về số lượng thành viên của tổ chức tại thời điểm đăng ký phải có số lượng tối thiểu thành viên là người lao động làm việc tại doanh nghiệp theo quy định của Chính phủ.
4. Vai trò tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở
Tổ chức bồi dưỡng kỹ năng thương lượng tập thể cho người tham gia thương lượng tập thể.
– Tham dự phiên họp thương lượng tập thể; nếu có đề nghị của một trong hai bên thương lượng tập thể.
– Cung cấp, trao đổi các thông tin liên quan đến thương lượng tập thể.
Trường hợp nhận được đề nghị bằng văn bản của một trong hai bên thương lượng tập thể; Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; tổ chức công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở; tổ chức đại diện người sử dụng lao động ở Trung ương và địa phương; Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện có trách nhiệm cử cán bộ tham dự phiên họp thương lượng tập thể.
Cán bộ được cơ quan, tổ chức cử tham dự phiên họp thương lượng tập thể có trách nhiệm cung cấp thông tin liên quan đến nội dung thương lượng; hướng dẫn pháp luật về lao động cho người tham gia thương lượng tập thể.
Theo đó, trách nhiệm của các chủ thể không chỉ dừng lại ở việc tổ chức bồi dưỡng kỹ năng thương lượng tập thể cho người tham gia thương lượng đạt được kết quả; mà còn có trách nhiệm tham gia phiên họp nếu có yêu cầu của một trong hai bên.
5. Trách nhiệm của doanh nghiệp đối với tổ chức đại diện của người lao động tại cơ sở
Tổ chức đại diện của người lao động tại cơ sở được thành lập hợp pháp, người sử dụng lao động phải công nhận và tôn trọng các quyền của tổ chức đã được luật quy định.
Nếu hợp đồng lao động đã giao kết với người lao động là thành viên ban lãnh đạo của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở đã hết hạn mà họ vẫn còn trong nhiệm kỳ, phải gia hạn hợp đồng lao động cho tới khi hết nhiệm kỳ của người đó.
Thành lập, gia nhập tổ chức đại diện người lao động là quyền của người lao động. Về phía người sử dụng lao động, không được cản trở, gây khó khăn khi người lao động tiến hành các hoạt động hợp pháp nhằm thực hiện quyền này của họ.
Theo điều 175 luật lao động 2019 các hành vi nghiêm cấm đối với người sử dụng lao động liên quan đến thành lập,gia nhập và hoạt động của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở
1. Phân biệt đối xử đối với người lao động, thành viên ban lãnh đạo của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở vì lý do thành lập, gia nhập hoặc hoạt động tổ chức đại diện người lao động, bao gồm:
– yêu cầu tham gia, không tham gia hoặc ra khỏi tố chức đại diện người lao động tại cơ sở để được tuyển dụng, giao kết hoặc gia hạn hợp đồng
– sa thải, kỷ luật, đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, không tiếp tục giao kết hoặc gia hạn hợp đồng lao động, chuyển người lao động làm công việc khác
-Phân biệt đối xủ về tiền lương, thời giờ làm việc, các quyền và nghĩa vụ khác trong quan hệ lao động
-Cản trở, gây khó khăn liên quan đến công việcnhằm làm suy yếu hoặt động cảu tổ chức đại diện người lao động tai cơ sở
2. Can thiệp, thao túng quá trình thành lập, bầu cử, xây dựng kế hoạch công tác và tổ chức thực hiện các hoạt động của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở, bao gồm cả việc hỗ trợ tài chính hoặc các biện pháp kinh tế khác nhằm làm vô hiệu hóa hoặc suy yếu việc thực hiện chức năng đại diện của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở hoặc phân biệt đối xử giữa các tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở.